Nhiều hóa chất khử trùng được sử dụng một mình hoặc kết hơp trong việc khử trùng, sát khuẩn, phòng dịch bảo vệ sức khỏe. Các hóa chất này bao gồm rượu, hợp chất chlorine, formaldehyde, glutaraldehyde, ortho-phthalaldehyde, hydrogen peroxide, iodophors, axit peracetic, phenolics và hợp chất ammonium. Các công thức thương mại hóa được xem là sản phẩm độc quyền và phải đăng ký với EPA hoặc được xác nhận bởi FDA. Trong hầu hết các trường hợp, một sản phẩm nhất định được thiết kế cho một mục đích cụ thể và được sử dụng theo một cách nhất định. Do đó, người dùng nên đọc cẩn thận hướng dẫn sử dụng để bảo đảm đúng sản phẩm cho mục đích sử dụng và áp dụng có hiệu quả.
Các chất khử trùng này không được thay đổi cho nhau, và việc pha chế không đúng nồng độ và các chất khử trùng không tương thích phù hợp có thể dẫn đến chi phí cao mà không hiệu quả. Một số bệnh nghề nghiệp của các nhân viên vệ sinh phun khử trùng phòng dịch có liên quan tới các chất khử trùng (formaldehyde, glutaraldehyde, và clo). Vì thế các biện pháp phòng ngừa như đeo găng tay, mặt nạ phòng độc, làm thông thoáng môi trường cần phải được sử dụng để làm giảm thiểu nguy cơ bệnh nghề nghiệp.
Bệnh suyễn và các bệnh sốc phản vệ đường hô hấp có thể xảy ra ở những người nhạy cảm với hóa chất trong không khí, bao gồm các hóa chất khử trùng sát khuẩn. Tốt nhất là khi đang phun hóa chất khử trùng sát khuẩn trong quá trình phòng trừ dịch bệnh, toàn bộ nhân viên và người có liên quan cần phải đi ra ngoài trong một khoảng thời gian nhất định để tránh ảnh hưởng tới sức khỏe.
Dưới đây là các thông tin tổng quan về các loại hóa chất dùng trong khử trùng sát khuẩn phòng ngừa dịch bệnh, người dùng có thể dựa vào đây để chọn ra các sản phẩm phù hợp với mục đích của mình và sử dụng hiệu quả nhất. Trong trường hợp cần thiết, người dùng nên sử dụng dịch vụ phun thuốc khử trùng Đà Nẵng để có được các biện pháp khử trùng chuyên nghiệp từ các chuyên gia khử trùng sát khuẩn hàng đầu.
Sử dụng cồn y tế để khử trùng
Tổng quan
Trong chăm sóc sức khỏe, Cồn là nói đến 2 loại hợp chất hóa học hòa tan trong nước – cồn Ethyl và Isopropyl – có đặc điểm là diệt khuẩn nói chung. Các loại cồn này nhanh chóng diệt khuẩn chứ không phải chống lại các bào tử thực vật, chúng diệt khuẩn, diệt nấm mốc, diệt vi trùng nhưng không phá hủy bào tử của chúng. Khả năng diệt khuẩn sát trùng của chúng giảm đáng kể khi pha loãng dưới 50%. Diệt khuẩn tối ưu của cồn này là nống độ từ 60% tới 90%.
Phương thức hoạt động
Giải thích khả thi nhất cho phương thức hoạt đông kháng khuẩn của cồn là biến tính của protein. Cơ chế này được hổ trợ bởi các nghiên cứu cho rằng cồn ethyl tuyệt đối, là một tác nhân khử nước, diệt khuẩn ít hơn so với hỗn hợp của rượu và nước vì protein được biến tính nhiều hơn một cách nhanh chóng với sự có mặt của nước như là một chất xúc tác. Các protein biến tính này cũng phù hợp với các nghiên cứu chỉ ra rằng cồn phá hủy các enzyme khử hydrogen của vi khuẩn Coli, và cồn ethyl làm tăng độ trễ của giai đoạn của các vi khuẩn gây tiêu chảy, và các giai đoạn trể này có thể bổ sung bằng các axit amin. Hành động kiềm chế vi khuẩn này được biết là do sản xuất các chất ức chế chuyển hóa cho việc phân chia tế bào nhanh.
Hoạt động diệt vi khuẩn
Methanol có tác dụng diệt khuẩn yếu nhất của rượu cồn và do đó hiếm khi được sử dụng trong y tế.
Các hoạt động diệt khuẩn của các nồng độ khác nhau của ethanol đã được kiểm tra chống lại một loạt các vi sinh vật trong thời gian phơi nhiễm khác nhau, từ 10 giây đến 1 giờ. Rượu ethyl, ở nồng độ 60% – 80%, là một tác nhân diệt chủng mạnh không kích hoạt tất cả các virus ưa béo (ví dụ như herpes, tiêm chủng, và virus cúm) và nhiều loại vi-rút ưa nước. Rượu Isopropyl không hoạt động chống lại các enterovirus không béo nhưng hoạt động hoàn toàn chống lại các virus béo. Nghiên cứu cũng đã chứng minh khả năng của ethyl và rượu isopropyl để làm bất hoạt viêm gan B virus (HBV) và virus herpes và rượu ethyl để làm bất hoạt vi rút suy giảm miễn dịch của con người như rotavirus, echovirus, và astrovirus.
Trong các bài kiểm tra về hiệu quả của rượu ethyl đối với bệnh lao, 95% ethanol giết các vi khuẩn trong đờm hoặc nước dịch chỉ trong vòng 15 giây. Năm 1964, Spaulding nói rằng rượu được sự lựa chọn cho các hoạt động diệt khuẩn, và họ phải là tiêu chuẩn mà tất cả các diệt trực khuẩn lao được so sánh. Rượu ethyl (70%) là sự tập trung hiệu quả nhất để giết chết giai đoạn mô của Cryptococcus neoformans, Blastomyces dermatitidis, Coccidioides di cư, và Histoplasma capsulatum và các giai đoạn nuôi cấy của ba chủng vi khuẩn sau này trong trên các bề mặt khác nhau. Giai đoạn nuôi cấy này có khả năng chống lại hành động của rượu ethyl và cần khoảng 20 phút để khử trùng bề mặt bị ô nhiễm, so với bé hơn một phút cho giai đoạn tái cấu trúc. Rượu isopropyl (20%) có hiệu quả trong việc giết chết u nang của Acanthamoeba culbertsoni như là Chlorhexidine, hydrogen peroxide, và thimerosal.
Sử dụng
Rượu không được khuyến khích để khử trùng các vật liệu y tế và phẫu thuật chủ yếu vì chúng thiếu hành động diệt khuẩn và chúng không thể xâm nhập vào các vật liệu giàu protein. Nhiễm trùng vết thương sau phẫu thuật gây tử vong với Clostridium đã xảy ra khi rượu được sử dụng để khử trùng dụng cụ phẫu thuật bị nhiễm bào tử vi khuẩn. Rượu đã được sử dụng một cách hiệu quả để khử trùng nhiệt kế bằng miệng và trực tràng, máy nhắn tin của bệnh viện, kéo, và ống nghe. Rượu đã được sử dụng để khử trùng nội soi sợi quang, nhưng thất bại của chất tẩy uế này đã dẫn đến nhiễm trùng. Towelettes rượu đã được sử dụng trong nhiều năm để khử trùng các bề mặt nhỏ như cao su Stoppers của nhiều liều thuốc lọ hoặc chai vắc xin. Hơn nữa, rượu được sử dụng để khử trùng các bề mặt bên ngoài của thiết bị (ví dụ ống nghe, quạt gió, túi thông gió bằng tay), dụng cụ siêu âm hoặc các khu vực chuẩn bị thuốc. Hai nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả của 70% cồn isopropyl để khử trùng tái sử dụng đầu dò trong một môi trường có kiểm soát. Ngược lại, ba bùng phát nhiễm trùng máu đã được mô tả khi rượu dùng để khử trùng đầu dò trong một thiết lập chăm sóc chuyên sâu.